Hủa Phăn, tháng 3 năm 2018
Rời Pha Thí chúng tôi hành quân gấp về phía Nam. Đi về nơi có tiếng súng, đường hành quân qua dãy núi cao dựng đứng 1688m- Hin Xa, Pha Boóng. Cuối tháng 01/ 1970, sau gần nửa tháng trời chúng tôi mới đến được dãy 1572m. Đây là nơi tập kết của quân ta. Các cán bộ cấp trưởng đi trinh sát về đang đắp sa bàn chuẩn bị cho kế hoạch tác chiến, anh em ở nhà đang học chính trị và viết quyết tâm thư trước khi vào trận.
Đồng chí Văn Đình Song, chính trị viên tiểu đoàn 923 (d923) và đồng chí Vinh, chính trị viên đại đội 62 (c62) tập hợp đơn vị quanh sa bàn hạ quyết tâm chiến đấu. Chính trị viên Song nói: Tiểu đoàn 923 và tiểu đoàn 927 được Bộ tư lệnh giao nhiệm vụ tiêu diệt căn cứ Tòng Khọ. Đảng ủy tiểu đoàn giao cho c62 làm chủ công đánh địch ở đồi A1 và A2 (đây là trung tâm chỉ huy của địch ở Tòng Khọ). Một số đơn vị quân giải phóng Pahét Lào tiến công địch từ C1 tới C5. Đại đội 5 tập trung hỏa lực bắn áp chế vào A3, A4.
Tòng Khọ là một căn cứ lớn, là nơi chiếm đóng của một GM (trung đoàn) quân đặc biệt Vàng Pao gồm 2 tiểu đoàn cơ động là BS 203 và BV 26 ngoài ra còn gần 1.000 tay súng của bọn Maki dân vệ ác ôn do tên trung tá Di Lầu chỉ huy.
Đây là căn cứ cuối cùng của địch ở Sầm Nưa (Lào), là nơi giáp ranh với tỉnh Luông Phra Bang – sát biên giới Việt Nam thuộc tỉnh Sơn La của ta. Phía bắc Tòng Khọ là cao điểm 1.754m, Nam có cao điểm 1.572m, Tây có dãy Phu Lơi cao chọc trời, Đông có dòng Nậm Ét và nhiều ngọn đồi cao gần 1.000m.
Dựa vào các thế núi cao hiểm trở địch đào công sự hầm ngầm cố thủ và có sân bay dã chiến cơ động. Hàng ngày chúng xua quân lùng sục quanh căn cứ, ban đêm chúng thả pháo sáng đèn dù, chốc chốc lại cho máy bay ném bom, bắn pháo và đạn 20 ly xuống những cánh rừng nghi có quân ta ở. Pháo cầm canh của giặc bỗng chốc lại nổ liên hồi từng chập một. Ban ngày hàng mấy chục chuyến phi cơ thả hàng, đạn pháo xuống bổ sung cho căn cứ. Taị đây, địch có hệ thống phòng thủ khá vững chắc, bên ngoài địch chăng nhiều lớp kẽm gai, bên trong có hầm ngầm cố thủ. Hỏa lực có pháo 106,7mm, lựu pháo 105mm, súng cối 81, DKZ75, súng chống tăng B90, cối 61, DKZ57…
Bộ tư lệnh chia Tòng Khọ ra làm 3 khu: Khu A có Al đến A4; A1 là sở chỉ huy; A2 là trận địa hỏa lực và sân bay trực thăng; A3 và A4 là cao điểm khống chế. Nhiệm vụ c62 là đột phá Al và A2 phát triển A3, A4. Khu B gồm từ B1 đến B8 có sân bay dã chiến và lực lượng cơ động của 2 tiểu đoàn địch do d927 đảm nhiệm. Các mũi tiến công đã được giao nhiệm vụ trên sa bàn. Đúng giờ “G” ngày “N” nổ súng. Khu C gồm C1 đến C5, là các chốt tiền tiêu của địch do c61 và 1 đơn vị Pathet Lào đảm nhiệm.
Anh em hăng hái gói thủ pháo, lau chùi súng đạn, ai cũng háo hức muốn được ra trận ngay. Tôi được bổ sung vào trung đội 4 (b4) tiểu đội 2 (a2), b trưởng b4 là đồng chí Ninh, a trưởng a2 là đồng chí Kỳ đang đi bám địch với đại đội trưởng Phạm Mang. B4 là đột kích 1 ưu tiên được nổ súng trước tại đồi A1.
Tôi có dáng cao gầy, thư sinh trẻ nhất nên cả trung đội ai cũng thương tôi, coi tôi là em út yếu nhất nên cái gì cũng được ưu tiên, mang vác cũng nhẹ hơn, quả thật tôi cũng yếu hơn anh em khác thật.
Đúng 17giờ ngày 01/01/1970 chúng tôi rời 1572 tiến vào Tòng Khọ. Xuống hết dãy núi vượt qua một con suối, qua hai nương thuốc phiện, một dãy đồi tranh sát chân khu C, đi cách địch chừng 300m.Đã hơn 9 giờ tối đơn vị vượt qua khu C tiến vào khu A. Tôi được lệnh dừng lại đi theo trung đội trinh sát bảo vệ sở chỉ huy tiểu đoàn.
Khoảng 1giờ sáng ngày 02/01/1970, các mũi của ta đã vào vị trí chiến đấu, bộ phận đột kích đã nằm cách chiến hào A1 chừng hơn 20m đợi lệnh. Nòng pháo đã hướng về A3 sẵn sàng nhả đạn. Lúc này địch vẫn chưa phát hiện được gì. Đồng chí Văn Đình Song yêu cầu các mũi chờ đơn vị 927 vào vị trí rồi mới nổ súng.
Đúng 1giờ30 sáng bỗng ở khu B từng chùm pháo sáng vụt lên sáng rực trời, đạn pháo của địch đã bắt đầu phát hỏa (hướng tiếp cận của d927 bị lộ) … Trên trời từng tốp máy bay thi nhau thả bom bi, bắn đạn 20 ly xuống những cánh rừng khu B chúng hò hét náo loạn cả một vùng. Khu A địch được báo động. Chúng triển khai ra chiến hào, lựu đạn, cối 81ly, 61ly, DKZ 57 phát hỏa liên tục. Khẩu đại liên từ đồi A2 quét chéo sườn vào đội hình đột kích. Đồng chí Ninh trung đội trưởng mũi nhọn, đồng chí Kỳ a trưởng, đồng chí Nầu giữ trung liên bị địch bắn thủng bụng hy sinh, đường dây thông tin bị đứt đã có vài đồng chí bị thương, đồng chí Mang đại đội trưởng hạ lệnh: – Đánh! Các bộc phá mở cửa mở liên tục liên tục, tiếp theo một loạt đạn B40, B41 phóng vào đồi Al, A2. Những ánh chớp xanh liên tục lao về phía địch, những chùm lửa đạn của hỏa lực ta chụp lên đồi A1, A2. Các mũi xung kích nhanh chóng vượt qua cửa mở lao lên, tiếng thủ pháo nổ dòn dã, tiếng AK từng loạt đanh gọn, chưa đầy 10 phút ta chiếm được đồi Al; hơn 10 phút sau A2 cũng bị ta tiêu diệt.
Ba phát pháo hiệu xanh vút lên báo hiệu chiến thắng, Đồi A3, A4 đã bị hỏa lực Đại đội 5 đè bẹp, địch không kịp phản ứng gì. Đồng chí Vinh chính trị viên ra lệnh cho anh em nhanh chóng chuyển thương binh, liệt sỹ xuống. Đồng Mang đại đội trưởng giao cho một tiểu đội giữ chốt, tôi được trả về đại đội và tham gia giữ chốt cùng 9 đồng chí khác. Đồng chí Hiến trung đội phó lên thay đồng chí Ninh chỉ huy anh em giữ chốt, chúng tôi nhanh chóng củng cố công sự, bố trí đội hình và chuẩn bị vũ khí đánh địch phản kích. Đại đội cơ động xuống rừng chuối cách đồi A1 chừng hơn 300m để bảo vệ chốt và chặn đánh địch phản kích. Sở chỉ huy thông báo khu B bị lộ d927 rút ra để đảm bảo hạn chế thương vong, d923 chỉ để lại c62 còn rút ra chuẩn bị cho kế hoạch đánh tiếp.
Khoảng 6 giờ 30 phút sáng ngày 02/01/1970, tiếng súng hiệu của địch ở khu B, khu C đã điểm. Chúng đang tập hợp quân, sương mù dày đặc. Không gian Tòng Khọ nặng nề như chìm xuống, trên trời 2 chiếc C130 và B2V5 thi nhau xả đạn 20ly xuống vành đai khu B, khu C. Như muốn truy đuổi quân ta ra xa căn cứ. Khoảng 9 giờ 30 phút, sương mù đã tan. Từ đồi A1 nhìn sang khu B địch đang tập trung quân ước khoảng vài trăm tên. Khu C địch đã triển khai quân để bao vây và chặn đường rút của ta. Súng pháo của địch đặt tại sân bay khu B quay nòng về đồi Al.
Lúc này trên chốt A1 có anh Thiệp (Thiệp rỗ) quê Thái Bình là tiểu đội phó giữ B41, biết tôi mới giữ chốt lần đầu nên anh luôn nhắc tôi không được nhô đầu lên chiến hào, khi có lệnh thì dùng lựu đạn ném liên tục chặn không cho chúng xông lên. Tên nào nhô lên chiến hào thì dùng AK diệt. Đội hình giữ chốt khá mạnh gồm 1ĐKZ 57,1B41, 1B40 còn lại toàn AK, rất nhiều lựu đạn đủ sức đánh lùi một tiểu đoàn địch. Anh Hiến dặn ở sườn Al và A2 rất dốc địch lên khó, hai anh em Việt và Thể (Trần ĐứcThể) giữ hướng này, cứ lựu đạn mà ném. Biết tôi thích được thưởng huân chương anh nói vui: “Khi anh bắn B41 thì Việt đến xem địch chết bao nhiêu để anh chia số địch chết cho em, khi về em sẽ có thưởng”. Nhìn anh thật thản nhiên khiếntôi vững dạ.
Anh Hiến quê ở Thái Bình người chắc đậm, hơi đen, mặt rỗ (trung đội có 3 anh quê ở Thái Bình là anh Hiến, anh Thiệp và anh Tuân). Nhìn tôi trắng trẻo, dáng thư sinh nên các anh ấy tưởng tượng chị gái tôi chắc phải xinh, nên anh nào cũng xưng anh gọi tôi là cậu Việt. Tôi cũng chẳng dại gì mà không tranh thủ các anh. Tôi nói đại là chị tôi đẹp lắm, người yêu lại mới hy sinh, chị ấy chỉ tin tôi và thương tôi lắm, nếu ai muốn làm anh rể thì phải quan tâm đến tôi chị mới đồng ý.
10 giờ sáng ngày 02/01/1970: Trên trời chiếc L19 bay lượn từng vòng, sương mù đã tan hết tiếng súng bỗng nhiên im bặt không khí căng thẳng bao trùm đồi Al. Chiếc L19 sà thấp phóng một quả đạn khói vào đồi Al, lập tức, hàng chục họng pháo thi nhau khai hỏa, tiếng nổ đinh tai, nhức óc, tiếng rít của đạn pháo quả là ghê sợ. Đồi A1 bỗng chốc chìm trong khói đạn, 4 chiếc F105 lượn 2 vòng rồi đột ngột lao xuống cắt bom. Anh Hiến hô anh em vào hầm. 8 loạt bom vừa ngớt chúng nó đánh chỉ cách ngọn đồi hơn 20m. Ngay sau đó, 2 chiếc T28 màu nâu to như cái thuyền nam sà sát đồi, chúng xả 20 ly, đạn bay loạn xạ tiếng nổ như ngô rang. Những vạt rừng cách đồi A1 vài chục mét bị đảo lộn, hố bom chồng lên hố bom, cây cối nát bươm và cháy trụi, pháo địch vẫn rít từng quả chùm lên đồi. Anh Hiến, anh Thiệp động viên anh em kệ cho nó bắn, khi nào nó mò lên cách 20m mới được nổ súng.
Khoảng 11 giờ địch tràn lên đồi Al, hàng trăm tên tay lăm lăm súng, quần áo rằn ri xộc lệch chúng vừa đi vừa bắn, vừa chửi rủa… 50m rồi 30m, rồi 20m đồi A1 vẫn im phăng phắc, bọn chúng dừng lại ngơ ngác. Tên chỉ huy đội mũ nồi đỏ đang gọi điện đàm, có lẽ chúng tưởng không còn ai trên chốt.
Anh Hiên thét: – Bắn! Ba khẩu B40, B41, DKZ57 bất thần phát hỏa trúng đội hình địch. Sau những tiếng nổ như sét đánh hàng chục tên giặc tung xác, số còn lại thi nhau tháo chạy, chúng tôi chĩa AK vào lưng chúng bóp cò mỗi loạt đạn vài tên đổ gục, chúng la hét kêu khóc hoảng loạn và bắn trả vung vít.
Đợt phản kích thứ nhất bị đẩy lùi. Gần 12 giờ trưa, 4 chiếc F4 lao xuống cắt bom, đồi A1 rung lên bần bật, chao đảo. Anh Hiến, anh Phòng hy sinh tại chỗ, anh Tơm y tá bị thương vào đầu máu chảy ướt ngực áo. Dưới bãi chuối nơi dấu quân của c62 đã điều một tiểu đội lên A1 để đưa thương binh liệt sỹ xuống, anh em cho biết: từ sáng tới giờ đã tổ chức ba lần đánh phản kích của địch để hỗ trợ trên chốt phòng ngự. Có đợt chúng vây kín đại đội nhưng anh em đã ngoan cường chống trả và đánh bật chúng ra.
Hết mấy loạt bom của 4 chiếc F4, 2 chiếc T28 sà thấp bắn đại liên vào chốt. Anh Thể bị đạn bắn thủng bụng, vết thương chảy máu nhiều. Tôi băng cho anh và đỡ anh dựa vào chiến hào, anh Thể nói: Đồng hương cứ yên tâm chiến đấu, tôi còn chịu đựng được. Anh ngồi dựa lưng vào chiến hào tay vẫn ôm khẩu súng. Đạn địch vẫn đan chéo trên nóc hầm, tiếng súng cối 61, M79 nổ như xé tai, bọn địch lại hò hét xông lên. Lúc chưa bị thương, anh Thể ném hàng trăm quả lựu đạn về phía địch. Có quả nổ trên không khiến bọn địch thương vong nhiều và khiếp đảm. Lại 2 quả DKZ và B41 nổ trúng đội hình bọn giặc đè lên nhau tháo chạy. Đợt phản kích thứ hai bị bẻ gãy.
Độ 14 giờ chiều ngày 02/01/1970: Hai chiếc máy bay AD6 lại lao xuống cắt bom, rồi phóng một loạt rốc két vào đồi A1, pháo địch lại thi nhau dội đạn xuống chốt, hàng trăm tên lại hò hét nhau xông lên. Anh Thiệp ra lệnh: “Ta phải lui quân thôi”… Lúc này hỏa lực ta chỉ còn 2 quả B41, DKZ còn lại 3 quả. B40 thì hỏng sau đợt phản đột kích lần hai, Thể lại bị thương. Anh Thiệp phân công: – Anh Môn bắn hai quả DKZ vào chỗ thằng chỉ huy, tôi bắn một quả dọn đường chỗ anh em mình chạy xuống, khi tôi bắn thì hai đồng chí Bấng2, Bời3 cõng đồng chí Thể chạy xuống chỗ cây to đổ, đồng chí Việt ở lại bắn yểm trợ rồi rút sau.
Tên chỉ huy đầu đội mũ nồi đỏ chỉ trỏ hò hét hàng trăm tên địch xông lên. Hai phát DKZ nổ kèm theo quả đạn B41 như sét đánh hất toàn bộ đội hình địch xuống sườn núi, anh em vội cõng nhau rời chốt. Tôi vọt lên mặt chiến hào xả từng loạt AK về phía địch, tráo đầu băng thứ 2 tôi bóp cò liên thanh… Những tiếng kêu thét của chúng chìm trong tiếng AK. Anh em dìu nhau chạy vào khu rừng cây trơ trọi vì bom đạn vừa đào xới, những thân cây to đổ gục. Nếu cứ chạy tiếp sẽ lộ. Lơi dụng các hố bom ngổn ngang cây đổ chồng chất, chúng tôi lấy đất và cành lá cây vùi lên người nằm im chờ trời tối. Địch đã tràn hết lên chốt, chúng chửi rủa bắn đạn vu vơ và tiến hành lùng sục. Hàng chục tên tay lăm lăm súng vừa đi vừa bắn, bọn địch chỉ cách chừng 20m nhưng không phát hiện ra chúng tôi. Anh Thể bị thương rất nặng nhưng cắn răng rên khe khẽ. Khoảng 17giờ, trời đã nhá nhem, anh em gạt đất lồm cồm ngồi lên. Nhặt một đoạn cây làm đòn chúng tôi cáng anh Thể tìm về đơn vị.
Đi được một đoan, bỗng phía trước có nhiều bóng người, anh em tưởng đơn vị ra đón nên đã phát tín hiệu mật khẩu. Mật khẩu vừa rứt, một loạt các pin bắn về phía chúng tôi, cây đòn cáng anh Thể bị đạn bắn gãy. Biết mình đã bị bao vây nên anh em quấn anh Thể vào chiếc võng bạt vác anh lần mò trong đêm tối. Khoảng 10 giờ đêm thì đến sông Nậm Ét và thoát ra ngoài vòng vây của địch.
Nghe tiếng nước chảy anh Thể bảo cho anh uống nước, sợ máu ra nhiều chúng tôi chỉ bón cho anh từng giọt một. Anh lại bảo, không sống được đâu cứ cho tôi uống cho đỡ khát, anh nhoài người ra đưa tay hớt nước, đoạn sông này nước chảy đến thắt lưng, chúng tôi động viên anh sắp về tới đơn vị rồi.
Trời tối, đường dốc, rừng rậm cộng với đói khát chúng tôi mò mẫm đến 2 giờ sáng thì về tới dãy 1572. Anh em vội bốc ít cơm nguội hôm trước ăn không hết cho vào ống bơ đun lên thành cháo rồi ăn tạm, còn ít lương khô hòa nươc cho anh Thể uống nhưng anh không ăn được nữa. Đói, rét và mệt chúng tôi nằm lăn ra nghỉ rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Gần 4 giờ sáng tôi lay gọi anh Thể thấy người anh cứng đờ, hóa ra anh đã tắt thở tự lúc nào.
Lúc 6 giờ sáng ngày 03 tháng 01 năm 1970 chúng tôi liệm anh Thể, mặc cho anh bộ quân phục mới nhất. Thấy chiếc thắt lưng của anh còn mới mà thắt lưng của tôi đã bị mảnh đạn cắt gần đứt, tôi nói: “Anh Thể ơi, xin anh, anh cho tôi chiếc thắt lưng này, nếu còn sống nhất định tôi sẽ mang về trao cho gia đình anh để làm vật kỷ niệm”.
Anh Thể là người trắng, đẹp trai, mặc dù bị thương mất máu nhiều song lúc chết môi vẫn tươi hồng như môi con gái. Nhìn khuôn mặt anh thật hiền, bình thản và thật đáng yêu. Anh như đang nằm ngủ ngon lành sau những trận giao tranh sinh tử… Chúng tôi ngậm ngùi lặng lẽ đưa anh ra nghĩa trang Mường Son rồi tìm đường trở về đơn vị.
Cấp trên thông báo: Đợt tập kích tuy không giải phóng được Tòng Khọ nhưng đơn vị đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch: Theo đài BBC và hãng tin AFP thì địch đã mất 507 tên. Phía ta có 42 đồng chí hy sinh và một số bị thương. Nếu lấy số địch bị ta diệt chia đều cho anh em (kể cả các đồng chí đã hy sinh và bị thương) thì tất cả chúng tôi đã trở thành Dũng sỹ trên đồi A1. Cho tới đầu tháng 3/1970 phải thêm hai lần tập kích nữa chúng ta mới làm chủ được Tòng Khọ và góp phần giải phóng hoàn toàn Sầm Nưa.
Dương Mạnh Việt