Trước khi nước lụt ập về, nội bộ tổ công tác nội thành có sự bất đồng ý kiến giữa hai đồng chí tổ viên là Phò Thít Tha và Thạo Chăn với đồng chí tổ trưởng Hùng Thoong về nguyên tắc hoạt động bí mật trong vùng địch kiểm soát. Đồng chí Quát là chuyên gia trực tiếp góp ý kiến mục đích là dàn xếp đoàn kết nội bộ và rút kinh nghiệm chung. Đồng chí Xổm Xa Vạt cũng góp ý kiến với tổ cần tuân thủ triệt để nguyên tắc công tác của Trung ương vì đây là vấn đề sống còn của cách mạng.
Sự việc như sau: đồng chí Hùng Thong liên hệ với nhân mối nội thành, người này thuộc lực lượng trung lập của Coongle (Trung lập khuynh hữu), đảm bảo đưa cán bộ Pathet Lào vào nội thành Viêng Chăn công tác an toàn. Trong khi tổ đang nghiên cứu và xin ý kiến của Trung ương thì một lần tổ đi xin gạo vào bản, đồng chí Hùng Thong nhân danh tổ trưởng, bảo các đồng chí khác trở về, còn đồng chí ấy đi với nhân mối trung lập vào Viêng Chăn quan sát tình hình sau ba ngày sẽ trở ra.
Mặc cho mọi người không đồng ý, Hùng Thong vẫn thực hiện ý định của mình. Ba ngày sau anh ta trở lại, tổ đề nghị Hùng Thong báo cáo vào Viêng Chăn liên hệ với những ai, ở nhà người nào, phố nào. Nội dung làm những việc gì. Đồng thời đề nghị Hùng Thong tự kiểm điểm việc làm vừa rồi ưu khuyết điểm ra sao? Hùng Thong chỉ nói anh ta vào nội thành mục đích tìm người yêu cũ. Người này học cùng một lớp. Sau khi Coongle làm đảo chính hai người mất liên lạc với nhau. Rồi Hùng Thong ra vùng giải phóng. Nay tìm lại, mục đích sẽ đưa cô ta ra vùng du kích cùng hoạt động và xin Trung ương cho hai người lấy nhau.
Còn về nguyên tắc thì Hùng Thong cho rằng anh ta là tổ trưởng có quyền tự quyết định. Việc khá phức tạp. Nhưng tổ cố dàn xếp để không xảy ra tranh cãi căng thẳng rất bất lợi khi tổ còn ở trong vùng địch, chỉ nửa tiếng đồng hồ là có thể vào thành phố Viêng Chăn.
Từ dự kiến xong đợt công tác của chúng tôi thì rút lên Phù Pha Năng rồi cử người về Trung ương báo cáo tình hình. Tất nhiên là tổ sẽ cử tổ trưởng Hùng Thong đi.
Khi Hùng Thong đã lên đường, tổ sẽ gửi điện cho Trung ương báo cáo sự việc và yêu cầu Trung ương giữ Hùng Thong ở lại vùng giải phóng không cho vào công tác nội thành nữa.
Trận lũ bất ngờ đã làm cho kế hoạch bị chậm lại. Cho đến ngày 18 tháng 8 (năm 1969) thì nước bắt đầu rút và chúng tôi chuẩn bị đêm hôm sau sẽ băng qua vùng nước ngập vượt đường 13, lên núi Phù Pha Năng.
Sáng 19 tháng 8 chúng tôi đồ xôi để ăn cả ngày và cho cả buổi sáng ngày mai. Mọi thứ mượn của cơ sở đều để lại cồn mối, Phò Thít Tha đã thống nhất với các đồng chí trung kiên, khi chúng tôi rút rồi thì các đồng chí ra thu dọn mọi thứ trả cho gia chủ hộ. Chập tối chúng tôi sẽ vào bản xin gạo, sau đó bí mật rút lên căn cứ.
Tất cả 6 anh em đều thực hiện như kế hoạch đã đề ra. Thu xếp đồ đạc, dọn dẹp mọi thứ rồi chôn để xóa dấu vết từ những mẩu thuốc lá đến các phế thải linh tinh, dấu giày dép, cọc treo võng, ba lô…
Mười sáu giờ ba mươi phút, đồng chí Hùng Thong nhắc mọi người kiểm tra đồ đạc lần cuối, xem có quên gì không. Rồi bỗng nhiên đồng chí xách chiếc nồi nhôm lội xuống nước nói với Phò Thít Tha, là đồng chí ấy sẽ lội qua nhà rẫy trả chiếc nồi cho vợ anh lính trung lập. Đồng chí Xổm Xa Vạt nói “tôi sẽ đi cùng đồng chí” nhưng Hùng Thong không đồng ý, nói “đồng chí ở lại, tôi đi rồi quay trở lại ngay”. Và Hùng Thong lội nước qua bên phía rẫy của người vợ lính trung lập trước sự ngạc nhiên của mọi người.
Lại một lần nữa Hùng Thong không chấp hành quy định của tổ vi phạm nguyên tắc hoạt động trong vùng địch.
Hùng Thong đi được khoảng 15 phút thì súng địch nhả đạn liên hồi vào cồn mối chúng tôi ở. Đạn súng cối nổ trên các ngọn cây, rơi xuống nước quanh cồn mối. Phò Thít Tha nói như ra lệnh: “Tất cả theo tôi”. Chúng tôi lao xuống nước. Nước ngập đến bụng rồi đến ngực. Cố gắng lội theo Phò Thít Tha, địch vẫn bắn xối xả vào cồn môi. Chúng tôi lội đã khá xa. Nước đã ngập đến cổ. Phía ngoài tiếng ca nô xình xịch chạy đi chạy lại. Trên trời bốn chiếc máy bay T.28 quần đảo bắn phá và dội bom. Chúng tôi lợi dụng những thân cây đổ để tránh đạn và sẵn sàng súng đạn nếu chúng lùng sục đến gần thì nhả đạn.
Trời tối dần rồi tối hắn. Ngâm nước lâu, ai nấy đều rét run lên. Đợi đến khoảng 10 giờ đêm thì nghe vang lên từ phía bản Na Xắp hai tràng súng máy trung liên, sau đó mọi vật trở lại im lặng. Chỉ nghe tiếng cá móng đớp mồi hoặc quẫy đẻ. Và tiếng ếch nhái, côn trùng kêu inh ỏi. Phò Thít Tha nói: “Ta quay lại cồn môi xem Hùng Thong có đến tìm ta không”. Chúng tôi súng trong tay, lặng lẽ lội theo Phò Thít Tha. Gần cồn mối chúng tôi dừng lại, Phò Thít Tha trèo lên cồn mối tìm rồi lại bắt chước tiếng thằn lằn gọi. Nhưng không tìm được Hùng Thong. Chúng tôi đoán có lẽ Hùng Thong hoặc là bị địch bắn chết ngay loạt đạn đầu. Nếu thế ta phải đến tìm bên nhà rẫy để lấy xác đem chôn. Cũng có thể Hùng Thong bị lạc, ta cố dùng ám hiệu gọi tìm. Và một khả năng nữa là Hùng Thong bị địch bắt. Dù sao thì cũng phải qua bên nhà rẫy để tìm Hùng Thong. Không thể để đồng chí mình ngâm xác cho cá rỉa hoặc một thân một mình giữa rừng khoộc ngập nước, bên cạnh không có đồng đội.
Chúng tôi nhẹ nhàng lội tìm nhà rẫy. Tôi, đồng chí Quát và đồng chí Xổm Xa Vạt dừng ở phía ngoài yểm hộ, Phò Thít Tha và đồng chí Thạc Chăn đi vào tìm trong khu vực rẫy. Tìm đi tìm lại hai ba lần không thấy. Chúng tôi quyết định phải rời khỏi khu vực nguy hiểm ngay, phải vượt cho được đường 13 trước lúc trời sáng.
Hơn một tiếng đồng hồ lội nước, chúng tôi đến được khu ruộng trũng của Bản Nậm Kiêng. Lúc này vừa mệt, vừa đói, vừa rét. Quần áo ướt sũng, giầy dép mất hết, chân ngâm bùn lâu không còn cảm giác. Ai nấy run cầm cập, hai hàm răng đập vào nhau giống như người đang lên cơn sốt rét. Thèm thuốc đến cực độ nhưng thuốc lá ngâm nước gần một đêm đã mủn hết. Phò Thít Tha bàn với chúng tôi đánh liều tìm đến nhà ruộng (thiểng na) của dân bản kiếm thuốc lá hút, nếu gặp may còn có thể tìm được xôi hoặc quả cây. Chúng tôi ngồi đợi ở bờ ruộng, Phò Thít Tha đi vào “thiểng na”. Phò nhanh chóng lên cầu thang, một lát bước xuống chui vào gậm sàn, Phò cời than ở que củi người ta đốt cho trâu khỏi bị dĩn và muỗi đốt. Phò huơ đi huơ lại trên mặt đất tìm kiếm nhặt cái gì đó. Lát sàu Phò ra bờ ruộng, với giọng buồn buồn Phò than phiền là chẳng tìm được cái gì, gạo không, xôi không, mắm muối không, cà, ớt đều không. Phò nói: “Không có các thứ ấy cũng được, nhưng không thể không có thuốc hút. Đói và rét nếu có một hơi khói thuốc người sẽ tỉnh ra”. Với người Lào thuốc lá là một trong tứ khoái([1]) nhất là khi thèm thuốc, được một điếu nằm hút thưởng thức làn khói đê mê, có khi- quên cả ăn. Phò lục tìm các ông nứa trên dàn bếp, ở góc nhà, nhưng không tìm ra một sợi. Phò xuống cầu thang, luồn xuống gậm sàn, hai tay sờ soạng lần tìm nhặt những mẩu thuốc lá người ta vất xuống sàn, gỡ giấy ra lấy thuốc vụn gom lại đem hơ lửa, rồi nhặt lá chuối khô đưa ra cho chúng tôi.
Ai nấy đều mừng rỡ, mỗi người dúm một tí thuốc, nhặt mẩu lá chuối khô, cuộn vội một điếu, châm vào mẩu than hồng. Nhưng thuốc lá chưa khô, châm vào than hồng rít mãi mới bén, ngừng rít lại tắt. Thì ra thuốc lá vứt gầm sàn, ngâm nước đái trâu nên khói thuốc vừa khé cổ vừa có mùi khai. Anh Thạo Chăn rít mạnh, ho, miệng vẫn khen “đã quá”. Đồng chí Xổm Xa Vạt nói: “Chưa lần nào hút thuốc lại ngon như lần này”. Anh Quát tủm tỉm cười: “Mai lên núi tha hồ hút thuốc lá thơm”. Riêng tôi, cầm mẩu thuốc lá trong tay, không châm lửa hút, mà đưa lên mũi hít hít cái mùi thuốc lá nồng khai, có hơi ấm của bàn tay Phò Thít Tha rồi bỗng dưng mũi cay xè, mắt rưng rưng. Sau này tôi bỏ thuốc lá, đến nay đã gần năm mươi năm, nhưng tôi không bao giờ quên cái đêm ba đồng chí Lào, hai đồng chí Việt, đội mưa, đứng nép vào nhau, cuộn những điếu thuốc nhặt từ mẩu người ta vứt bỏ đi cuộn vào mảnh lá chuối khô, kẻ hút, người ngửi cho đỡ thèm, đỡ rét.
Mưa vẫn rơi nặng hạt, chúng tôi lại lầm lũi bước. Đồng chí Xổm Xa Vạt và tôi không có ni lông che mưa, Phò Thít Tha đưa cho hai chúng tôi mỗi người một nửa tàu lá chuối che đầu. Phò động viên: đi trong đêm mưa thì an toàn tuyệt đối vì giờ này kẻ địch đang say giấc nồng.
Mờ sáng, chúng tôi vượt đường 13 phía trên bản Hna Khủa cách trung tâm thành phố Viêng Chăn hai mươi kilômét. Cách bản khoảng ba trăm mét, có lối mòn rẽ vào khu vườn trồng rau, chuối của dân. Phò Thít Tha dẫn chúng tôi vào một lùm cây bảo chúng tôi nghỉ lại. Phò cho biết ở gần bản, nếu chú ý giữ bí mật sẽ rất an toàn vì kẻ địch không thể ngờ ta lại dám ẩn nấp ở cạnh bản gần đường giao thông. Đồng chí xổm Xa Vạt và tôi rét run cầm cập.
Phò Thít Tha, anh Thạo Chăn, anh Quát không mất ba lô đồ đạc, nhưng tất cả đều sũng nước, cũng rét run lên. Chúng tôi nép mình vào nhau cho ấm. Do quá mệt, chúng tôi thiếp đi. Phò Thít Tha vơ ít lá chuối khô quanh rẫy phủ lên người chúng tôi, rồi lấy mảnh vải dù hoa che lên trên vừa ngụy trang, vừa che gió, mưa cho đỡ rét.
Khi chúng tôi tỉnh dậy, trời đã tạnh, le lói có ánh nắng ấm, ba chiếc ba lô ướt sũng đã được đem phơi chỗ thấp, phía xa không nhìn thấy được. Trên hòn đá giữa rẫy, Phò Thít Tha cởi trần, chỉ mặc chiếc quần đùi, áo quần dài Phò cởi ra phơi nắng. Thấy chúng tôi đã dậy, Phò bước vào lùm cây, lấy ra một típ xôi, một gói “cheo”. Chúng tôi được một bữa ăn ngon chưa từng thấy.
Thì ra khi chúng tôi ngủ, Phò Thít Tha lần ra phục ở bụi rậm cạnh đường quan sát dân đi rẫy, nhận được một người là cơ sở cũ, Phò liền gọi vào hỏi tin tức và xin xôi ăn. Cơ sở đưa cho Phò cả típ xôi, gói cheo và cho biết Hùng Thong không phải bị địch bắt, mà hắn chính là tên phản bội đã móc nối với tên trung lập khuynh hữu liên hệ với người yêu cũ. Nó đưa Hùng Thong đến trình diện tên chỉ huy cảnh sát. Chúng thống nhất kế hoạch đêm mười chín tháng 8 bao vây tổ mới bắt sống đồng chí Xổm Xa Vạt và hai cán bộ người Việt, giết chết Phò Thít Tha và Thạo Chăn sau đó bắt hết cơ sở trong các bản, phá sạch phong trào cách mạng vùng ven đô. Song kết quả trận tập kích đã không đạt. Tên lính gác thấy một lính Pathet Lào lội nước đi thẳng vào phía nhà rẫy. Nó hốt hoảng bắn một phát súng chỉ thiên báo động có địch. Bọn lính tưởng chỉ huy phát lệnh tấn công. Thế là súng nhỏ, súng to, đồng loạt bắn như mưa vào mục tiêu cồn mối.
Trong cái không may lại có cái may, cả tổ thoát nạn chỉ mất hai chiếc ba lô của đồng chí Xổm Xa Vạt và của tôi.
Cơ sở còn cho Phò Thít Tha biết, sau trận đánh úp không đạt yêu cầu, bọn chỉ huy qua sự chỉ điểm của Hùng Thong, đã bắt hai mươi hai người dân bản Na Xắp trong đó số đông là các trung kiên trong đường dây tổ chức bí mật. Phò Thít Tha nhờ cơ sở Hua Khủa, tìm cách chuyển đến những người bị bắt cách thức đấu tranh với địch.
Hai hôm sau, cơ sở báo tin cho Phò Thít Tha, cả hai mươi hai người bị bắt đều đã được thả về do không có chứng cớ. Những người bị bắt trước câu hỏi:
– Ai tổ chức chúng mày?
– Chúng mày liên lạc với ai ở rừng?
Họ đều thống nhất trả lời:
– Ngài Hùng Thong là người tổ chức.
– Liên lạc với ngài Hùng Thong.
Bọn chỉ huy cảnh sát và ngay cả Hùng Thong đều cứng họng trước những câu trả lời đanh thép ấy và chúng buộc phải thả tất cả những người bị chúng bắt giam.
[1]. Tứ khoái của người Lào về cơ bản giống người Việt gồm ăn, ngủ, đ… “i”. Nhưng cụ thể hơn đó là “Lạp phan, man òn, khí xắng khòn, non xúp da” có nghĩa là ăn lạp hoẵng, ngủ với người có thai non, ngồi “ị” từ cây gỗ xuống và nằm hút thuốc lá.
Đào Văn Tiến