Năm 1969, khi chiến tranh của Mỹ tại tỉnh Xiêng Khoảng đang ở giai đoạn khốc liệt nhất, nhân dân Xiêng Khoảng phải đi sơ tán về phía Đông. Khi đó tôi mới 10 tuổi, vừa thi xong lớp 4, trong giai đoạn chỉ có tiếng súng của quân thù. Vừa đúng lúc thi xong thì bố mẹ, anh em tôi cùng với người dân trong bản lên đường, vượt qua bao núi, rừng và cũng không biết là phải mấy ngày mấy đêm mới đến được biên giới với Việt Nam để đi đến tỉnh Nghệ An, Việt Nam.
Trong chuyến đi ấy, chúng tôi đã gặp biết bao nhiêu là khó khăn, ví như bố tôi là trụ cột trong gia đình lại bị thương nên phải nhờ anh em dìu. Có một hôm, khi đã đi đến hết nửa đường thì chúng tôi phải nghỉ lại để tìm thức ăn và cũng chính đêm đó, lực lượng phía Viêng Chăn đã cử nhiều binh lính và cả máy bay để cản trở đường đi của người dân Xiêng Khoảng với mong muốn sẽ bắt tất cả về Viêng Chăn… Trong đêm hôm đó, nhờ có sự giúp đỡ của đơn vị bộ đội Lào và Việt Nam gia đình tôi là một gia đình may mắn đã tránh được tay địch, một nửa nhân dân của bản đã bị chúng lùa về Viêng Chăn, nhân dân trong bản cũng bị chia cắt kể từ hôm đó cho đến khi đất nước được giải phóng, một số dân bản không có cơ hội để trở về quê hương của mình nữa.
Gia đình tôi cùng với số dân bản còn lại tiếp tục chuyến đi đến địa điểm an toàn. Khi đi đến địa điểm mà tỉnh Nghệ An dành cho người dân Xiêng Khoảng, chúng tôi được ở cùng bố mẹ một thời gian rồi cũng được tập trung đến bản Hua Nà, xã Lục Dạ, huyện Con Cuông để tiếp tục đi học tại trường dành cho học sinh được chuyển đến từ tỉnh Xiêng Khoảng.
Để xây được trường học dành riêng cho học sinh Xiêng Khoảng cũng mất một khoảng thời gian. Do đó, chúng tôi phải ở trong nhà người dân ở bản Hua Nà, chia ra một nhà ở từ 5 -6 người… Khi đó, tôi cũng được ở trong một nhà dân tại bản, đến nay, tôi vẫn không thể nhớ ra tên của gia đình đó, bởi lúc đó còn nhỏ quá. Tôi được ở trong ngôi nhà đó với nhiều anh, chị em khác, còn chị cả của tôi thì phải ở trong một gia đình khác gần đó… Dù là người bé nhất trong ngôi nhà đó, nhưng tôi vẫn cố gắng làm việc nhà để giúp đỡ người lớn. Khi đó cuộc sống rất khó khăn, người lớn nấu cơm độn với sắn (lúc đó mọi người nấu cơm cho người Lào ăn, còn mọi người đều ăn độn sắn, hoặc độn ngô), gia đình đó thường xuyên nắm cơm nóng hổi đưa cho tôi ăn, thỉnh thoảng tôi cầm nắm cơm nắm để vào vạt áo đi chia cho chị ăn nữa…
Nghĩ đến đây thôi tôi thấy rất bồi hồi vì kể từ đó vẫn chưa được gặp lạí người đã cưu mang mình. Họ chính là những người đã cho tôi ăn cơm nóng hổi trong lúc đói kém, thiếu thốn đủ đường vì ảnh hưởng của chiến tranh.
Trong thời gian tôi được làm việc ở Việt Nam, tôi thường hay hỏi về gia đình đó nhưng cũng không có tiến triển gì vì tôi có quá ít thông tin về gia đình đó… Tuy nhiên, tôi vẫn không dừng việc cố gắng tìm kiếm, liên lạc với bạn bè Việt Nam ở tỉnh Nghệ An để có cơ hội gặp lại thành viên trong gia đình để bày tỏ lòng biết ơn… Nhưng thời gian trôi qua, tôi vẫn chưa thể thực hiện được mong muốn của chính mình. Cũng có thể, những người đã từng chăm sóc tôi đã ra đi, chỉ còn lại những ký ức tươi đẹp của tôi mà thôi.
Sau khi rời ngôi nhà đó, tôi vào học tại trường dành cho học sinh Xiêng Khoảng, sau đó tiếp tục con đường học hành cho đến tận ngày nay. Tôi vẫn chưa thể thực hiện được mong muốn mà mình đề ra. Sâu thẳm trong trái tim tôi vẫn là những ký ức về tình thương yêu, đùm bọc của nhân dân Việt Nam nói chung, của gia đình cưu mang tôi ở bản Hua Nà, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An, Việt Nam nói riêng, và trường hợp của tôi cũng chỉ là một trong hàng trăm, hàng nghìn trường hợp thể hiện những tình cảm sâu nặng, mối quan hệ sâu sắc của nhân dân hai nước Lào – Việt Nam.
Dù có gặp được hay không gặp được do thời gian trôi qua và có thể những thành viên trong gia đình không còn nữa nhưng tôi sẽ mãi gìn giữ những ký ức tốt đẹp đó mãi mãi và sẽ cố gắng làm mọi việc để đóng góp cho việc vun đắp mối quan hệ đặc biệt Lào – Việt Nam mãi mãi trường tồn.
Nhân dịp nhân dân Lào và Việt Nam cùng kỷ niệm 55 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Lào – Việt Nam (05/09/1962 – 05/09/2017) và 40 năm ngày ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Lào – Việt Nam, Việt Nam – Lào (18/07/1977 – 18/07/2017) trong năm nay, tôi có một niềm mong muốn to lớn dù thời gian nhanh chóng trôi qua nhưng mối quan hệ mật thiết, tình đoàn kết đặc biệt giữa hai nước Lào – Việt Nam sẽ mãi mãi trường tồn, sẽ là nguồn năng lượng không bao giờ cạn của hai nước để cùng nhau xây dựng đất nước của mình ngày một phát triển trong điều kiện cả hai nước chúng ta hội nhập khu vực và quốc tế.
Đc Sủn Thon Xay Nhạ Chắc –
Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào