“Hang Thẩm Phiu” theo cách gọi của ta, “PIU CAVE” theo tài liệu của CIA Mỹ là một địa danh ít được nhắc đến cho cả hai phía. Có lẽ bởi tính khốc liệt và hậu quả kinh hoàng cùng những thiệt hại vô cùng lớn đã ám ảnh cả hai bên.
Sau gần nửa thế kỷ đã đi qua, tôi xin viết đôi dòng về sự kiện này như một lần ôn lại lịch sử liên quân Lào – Việt, như một lời tri ân những người đã ngã xuống tại nơi này, như một lời nhắc nhở cho một bài học đắt giá phải trả bằng xương máu của 374 con người.
Hang Thẩm Phiu, cái tên đã ám ảnh bấy lâu nay cho tất cả những ai biết về sự kiện ngày 24/11/1968, là nỗi tiếc nuối trong lòng các chuyên gia quân sự, các cựu quân tình nguyện Việt Nam, lực lượng Phathet và nhân dân các bộ tộc lào trên cao nguyên Xiêng Khoảng.
Hang Thẩm Phiu nằm trong lòng núi Na Long tại khu vực bản Na Long, Na Mơn, thuộc huyện Mường Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng. Thuộc phía tây nam tỉnh Sầm Nưa với khoảng cách cả 5 ngày đường đi bộ, cách ngã ba Bản Ban 5 km về hướng tây bắc. Nơi đây đã từng là Sở chỉ huy khu B của trung đoàn 217 Công binh (Sở chỉ huy khu A của e217 đặt tại Sầm Nưa). Khi ấy, Sở chỉ huy khu B được đặt trong hang đá bản Na Long. Đây là trung tâm chỉ huy toàn tuyến đường 7B qua Khang Khay vào Xiêng Khoảng, theo đường 4A, 4B xuống Tha Thơm, Tha Viêng gặp Quốc lộ 13 tại thị xã Pắc Xan. Núi Na Long có nhiều hang đá rộng lớn, dùng cất giấu kho tàng, trú quân tương đối an toàn. Tuy nhiên cũng tiềm ẩn không ít bất lợi, đó là xa các tuyến đường, hang đá chỉ có một cửa ra vào.
Sở chỉ huy khu B gồm 3 tầng hang đá. Tầng hang thấp gần suối nước bố trí cho bộ phận hậu cần, nuôi quân; tầng hang thứ hai rộng rãi, có thể chứa được cả trăm xe ô tô, phía trước có bãi trống bằng phẳng. Bố trí nơi ở cho các phân đội, cho số anh em từ các đơn vị về chờ nhận công tác hoặc nhận hàng hóa, khám chữa bệnh, điều trị vết thương. Cùng ở trong hang này còn có hơn 200 hộ dân với gần 400 người của bản Na Long và Na Mơn. Cách sắp xếp là, bộ đội ở phía trong hang để giữ bí mật lực lượng và cất giấu kho tàng; các hộ dân làm nhà tạm ở hai bên ra vào cửa hang.
Chình vì là nợi tập trung sinh sống của hàng trăm người dân và là nơi tập kết vũ khí, đạn dược, lương thực, đồng thời là bệnh viện dã chiến nên yếu tố bí mật tuyệt đối là vô cùng khó khăn. Tình báo Mỹ đã dánh hơi thấy điều này. Chúng đã lên kế hoạch đánh phá khu vực Mường Khăm, với mục tiêu cố định, chính xác là hang Thẩm Phiu.
Giữa tháng 11năm 1968, Chỉ huy Trung đoàn từ khu A (Sầm Nưa) nhận lệnh của cấp báo từ Bộ chỉ huy Mặt trận Cánh Đồng Chum Xiêng Khoảng cho biết: Không quân Mỹ đã “đánh hơi” được lực lượng, phương tiện chiến tranh của ta đang tập kết rất lớn tại khu vực Mường Khăm – Bản Ban. Mục tiêu tập trung đánh phá của địch nhằm vào nơi trú quân, kho tàng của ta, trong đó có lực lượng của bộ đội công binh (hang Na Long). Chỉ huy Trung đoàn 217 từ khu A đã chỉ thị, giao nhiệm vụ cho Sở chỉ huy khu B phải di chuyển ngay đơn vị đến nơi ở mới, bảo đảm an toàn. Thời điểm này đang giữa mùa khô của Lào rất thuận lợi cho cơ động, di chuyển. Tuy nhiên, cán bộ chỉ huy khu B đã chủ quan về tính kiên cố của hang đá, bên cạnh đó là ý thức chấp hành mệnh lệnh không nghiêm. Nên sở chỉ huy khu B đã không thực hiện ngay mệnh lệnh này, đã chậm trễ di chuyển địa điểm.
Vậy là điều phải đến đã đến. Ngày 24 tháng 11 năm 1968 đã trở thành ngày định mệnh của 374 con người tại hang này. Một ngày mùa Đông năm Mậu Thân, tiết trời âm u, sương phủ trắng núi đồi khu vực Mường Khăm, đủ loại mãy bay Mỹ đồng loạt kéo đến. AD6, L19, F105 đã thay nhau quần thảo với đủ loại vũ khí hạng nặng được chút xuống nơi này: Tên lửa, rốc-két, ném bom cháy, bom bi, bom tấn, bom sát thương các loại xuống khu vực Mường Khăm, nhằm mục tiêu là hang Thẩm Phiu. Đợt đánh phá với mức độ cao, cường độ mạnh, có tính hủy diệt lớn với tốc độ chớp nhoáng, dữ dội làm cho lực lượng của ta và bà con dân bản Na Long, Na Thơm đang trú ngụ tại đây hoàn toàn bị động, không kịp phản ứng, giải nguy. Khi trời bớt sương mù, trời quang, mục tiêu cửa hang lộ rõ, một loạt tên lửa bắn trúng dãy nhà hai bên, lửa cháy ngùn ngụt, thiêu rụi hết dãy nhà ngoài đến dãy nhà trong rồi lan nhanh vào kho tàng, nơi ở của bộ đội phía trong hang. Còn ở bên ngoài bãi bằng, cửa hang máy bay địch gầm rú điên loạn, ném bom sát thương khắp nơi. Ở trong hang sâu, do sức nóng quá lớn, không khác một lò lửa khổng lồ. Tất cả nhà dân bị cháy, sập đổ chắn lối ra vào. Lửa cháy rực trời đã càng lúc càng đẩy người dân và bộ đội chạy lùi vào hang sâu tối tăm, tránh nóng, tìm lối thoát… nhưng tất cả đều vô vọng. Sau nhiều giờ bị ngạt thở, kiệt sức, tất cả đều lịm dần, đều đã hy sinh. Trong khoảnh khắc mong manh giữa sống và chết, có hai người là Phó ban hậu cần Nguyễn Vinh và Tiểu đội trưởng Thông tin Cao Sỹ Mùi đã lao qua lửa cháy, giẫm đạp lên than đỏ hừng hực chạy ra ngoài cửa hang thoát nạn, nhưng phải mang những vết bỏng nặng toàn thân.
Tổn thất của bộ đội quân tình nguyện được nhân lên bởi chính ngày 24/11/1968 ấy, có gần 100 cán bộ khung và Chiến sĩ tiêu biểu của trung đoàn 217 Công binh tập trung về chuẩn bị dự Đại hội Thi đua Quyết thắng cuối năm. Phần lớn trong số họ đều ở tuổi 19-20. Họ đều hy sinh sau trận oanh tạc khốc liệt bậc nhất ấy. Trong số các chiến sỹ hy sinh hôm ấy có hai bác sĩ là Đại úy Nguyễn Ngọc Sỹ-Phó ban Quân y Trung đoàn, Thiếu úy Vũ Thủy (quê ở phố Khâm Thiên, Hà Nội), một nữ y tá là Trung sĩ Đoàn Thị Hồng, quê xã Quảng Định, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Hồng đang cầm trong tay giấy báo về học Trường Trung cấp Quân y tại Sơn Tây, chờ có chuyến xe về nước gần nhất để ghé thăm quê, thăm mẹ sau 3 năm xa nhà. Nhưng rồi tất cả đã thành tro bụi sau thời khắc định mệnh ấy Bốn ngày sau cuộc “thiêu sống” ấy của không quân Mỹ, 28/11/1968, trung đoàn 217 đã huy động lực lượng đến giải quyết hậu quả. Với mệnh lệnh bằng mọi giá phải tìm cho hết, nhận dạng các thi hài là cán bộ, chiến sĩ, đưa về an táng tại Nghĩa trang Nậm Cắn, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, trên biên giới Việt-Lào. Nhưng do sức nóng của bom, đạn, tên lửa và sức “om” của lò thiên tạo là hang Thẩm Phiu, việc nhận dạng anh em ta là rất khó khăn. Chỉ nhờ vào các nhận định hình thái cùng các di vật của bộ đội ta. Còn tên tuổi là điều không thể. Số không thể nhận dạng được cùng toàn bộ thi thể của người dân Lào được xử lý cẩn thận, chôn chung tại bãi bằng trước cửa hang.
Ngày 24 tháng 11 đã chở thành ngày giỗ chung của 374 con người Lào và Việt, là ngày hy sinh chung của 92 người con ưu tú của quân tình nguyện thuộc e217. Sự kiện này mãi là một khúc nhạc buồn trong lịch sử chiến đấu của trung đoàn 217 Công Binh nói riêng và của liên quân Lào – Việt nói chung.
Số thi hài các chiến sĩ nhận dạng được, đã đưa về an táng tại Nghĩa trang Nậm Cắn, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, trên biên giới Việt-Lào. Sau hòa bình lập lại, năm 1986 đã được đoàn quy tập quân khu 4 đưa về an táng tại nghĩa trang quốc tế Việt-Lào.
Đã qua 48 lần ngày giỗ tập thể của gần 92 cán bộ chiến sỹ quân tình nguyện thuộc e217 Công binh cùng với gần 282 bà con nhân dân các bộ tộc Lào tại Na Long, Na Mơn, Mường Khăm, Xiêng Khoảng. Đã cả nửa thế kỷ đi qua những nỗi đau còn nguyên vẹn đó, bài học xương máu vẫn còn đó.
Để tưởng nhớ những người đã ngã xuống tại đây, trước cửa hang Thẩm Phiu, đài tưởng niệm đã được xây dựng lên, những ngôi mộ tập thể ấy đã được tu bổ khang trang. Hang Thẩm Phiu đã trở thành một nơi linh thiêng. Nhân dân các bộ tộc Lào tại huyện Mường Khăm, cao nguyên Xiêng Khoảng và các cựu quân tình nguyện Việt Nam, trong những chuyến thăm lại chiến trường xưa đều đến thắp hương tưởng nhớ những người con của hai đất nước đã năm xuống nơi này.
Sự hy sinh của những con người năm ấy đã mãi là tấm bia lớn ghi nhận công lao của các liệt sỹ liên quân Lào – Việt. Máu xương họ luôn tô thăm tình hữu nghị đặc biệt Việt – Lào. Cũng luôn là lời nhắn nhủ cho các thể hệ con dân hai nước về sự nghiệp cách mạng và truyền thống lịch sử chống giặc ngoại xâm của hai dân tộc. Bài học hang Thẩm Phiu mãi còn nguyên giá trị. Để cũng từ đây, các thế hệ sẽ tiếp tục để kế thừa, phát huy, không ngừng vun đắp cho tình hữu nghị, đoàn kết đặc biệt thủy chung, trong sáng của hai dân tộc Việt Nam – Lào mãi xanh tươi, đời đời bền vững!
(Tài liệu tham khảo: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt – Lào; các tư liệu về lịch sử Quân tình nguyện Việt Nam và Chuyên gia quân sự đã công tác tại Lào).
Người tổng hợp: Trần Đình Huân – Trưởng ban liên lạc thân nhân gia đình Liệt sĩ MT31 CĐC