Sau khi đánh thắng giòn giã quân địch trong trận “tao ngộ S chiến”, bắt tù binh, thu vũ khí, Đại đội 20 đặc công chúng tôi được thủ trưởng trung đoàn giao nhiệm vụ phối hợp với Trung đoàn 1 của sư đoàn chặn đánh quân địch đang hành quân từ Sê Pôn về phía đông.
Phương án tác chiến được xác định là: Dựa vào công sự sẵn có ở Trạm 19, đại đội chúng tôi tổ chức thành một trận địa phòng ngự chốt, chặn đứng cuộc hành quân của quân địch. Đồng thời, sư đoàn dùng Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 1 do anh Võ Chót – Trung đoàn phó chỉ huy cơ động đánh thốc từ phía sau để tiêu diệt địch. Nôm na được hiểu là, đại đội chúng tôi chốt chặn như một cái “đe”. Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 1 cơ động đánh lên như một cái “búa”. Hai bên dồn ép quân địch lại để tiêu diệt.
Yêu cầu đặt ra đối với đại đội chúng tôi phải bám trụ kiên cường, trong mọi trường hợp không được lùi trận địa. Đối với Tiểu đoàn 1 phải cơ động trên mặt đất dũng mãnh tấn công.
Bắt đầu khai hỏa, toàn bộ trận địa của chúng tôi bị chìm trong hỏa lực cối 60 ly, cối 82 ly và DKZ75 của Trung đoàn 1. Có mấy đồng chí trực cảnh giới ở cửa hầm bị thương vong.
Lạ thế, lúc đánh nhau với địch thì thấy sức công phá hỏa lực ta chỉ viện chưa đủ mạnh. Vậy mà khi hỏa lực đó giáng trúng đội hình mình thì nghe dữ dội, đanh rát đến khủng khiếp.
Chúng tôi phải bẹp dí xuống hầm, không thể ngóc đầu lên được. Tình hình này nếu kéo dài là rất nguy hiểm. Vì khi quân địch rút lui sẽ tràn qua trận địa ta.
Bí quá, tôi bảo cậu Tạ Ngọc Dũng điện đài 2W gọi ngay cho Trung đoàn 1 yêu cầu lùi tầm bắn lại khoảng 200 mét mới trúng được đội hình địch mà không rơi sang trận địa ta.
Cậu Dũng điện đài loay hoay mãi chưa liên lạc được. Trong khi đó, các loại đạn pháo cứ cấp tập nện chát chúa vào công sự trận địa của đơn vị. Tôi sốt ruột vô cùng. Điện báo viên thì bền bỉ gọi:
-Sông Hồng gọi Sông Lô. Nghe tốt, nghe rõ, trả lời.
Khi điện đài thông thoại được, tôi giật phắt lấy ổng nói, không dùng mật khẩu nữa, cáu tiết tôi hét toáng lên:
– Ông Võ Chót ơi, tôi là Đầu đặc công đây, cối 82 và DKZ của các ông bắn trúng vào trận địa của chúng tôi mất rồi. Không thể ngóc đầu lên được. Hướng bắn thì đúng đấy, nhưng phải cho tầm bắn lùi lại 200 mét thì mới trúng vào đội hình quân địch.
Cáu quá, tôi còn chửi thề mấy câu nữa. Tức thì, đầu bên kia nhận được thông tin, anh Võ Chót chỉ thị điều chỉnh tầm bắn của cối 82 ly và DKZ75.
Trận đó, Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 1 phối hợp cùng đại đội chúng tôi đánh thắng giòn giã, tiêu diệt và bắt sống gần trăm tên tù binh ngụy.
Mãi tới sau này, năm 1993, anh Võ Chót là Thiếu tướng, Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân khu 4 có lần cùng dự bữa cơm thân mật với mấy anh em ở nhà hàng làng Lệ Mật (Gia Lâm, Hà Nội). Ôn lại kỷ niệm xưa, anh Chót kể lại trận đánh đó.
Cuối cùng anh vừa cười, nói vui:
– Các ông ạ! Bây giờ ông Đầu là Cục trưởng Cục Chính sách trông thì hiền thế thôi chứ trước đây, lúc đánh nhau ở trận tiền, là cán bộ chính trị còn rất trẻ nhưng ông ấy nóng nầy, quyết liệt và thậm chí là ngoa ngôn lắm đấy!
Tôi cười vui, nói lại:
– Mỗi hoàn cảnh có thứ ngôn ngữ riêng. Cách biểu đạt cũng vậy. Giữa lúc bom rơi đạn nổ ngút trời, sự sống chết của mình và đồng đội là mong manh, thời khắc diễn ra tình huống chóng vánh, phải hoànthành nhiệm vụ là mệnh lệnh tối thượng. Vì vậy, người chỉ huy phải xử lý nhanh chóng, chính xác và hiệu quả nhất. Có phải như bây giờ đâu mà tế nhị, ngọt ngào, nhẹ nhàng, thưa với gửi!
Nghe xong, mọi người cùng cười.
Anh Võ Chót quê ở Khánh Hòa, cùng tuổi Tý, hơn tôi tròn một giáp (1936), đi bộ đội từ kháng chiến chống Pháp. Năm 1955, anh Chót tập kết ra miền Bắc trong đội hình Sư đoàn 324 đóng quân ở Đô Lương (Nghệ An). Tôi nghe kể, hồi đó anh Chót là chiến sĩ tiếp phẩm, nuôi quân. Hàng ngày với chiếc xe đạp cà tàng không chuông, không phanh, không gác đờ bu, anh Chót đi các chợ trong vùng về nấu cơm cho đơn vị. Có một buổi sáng mùa đông, năm ấy trời lạnh rét, chiến sĩ nuôi quân Võ Chót 19 tuổi đang xới cơm từ chảo quân dụng chia ra mâm cho bộ đội, thì có một cô bé gái chừng 12, 13 tuổi đói bụng quá, cõng em trai thơ thẩn đứng nhìn. Thấy thế, anh Chót thương tình đưa cho một miếng cháy và nói, này em bé cầm lấy mà ăn cho no, mau to, bữa sau anh lấy em làm vợ. Ai ngờ, câu nói vu vơ đó về sau thành hiện thực. Cô bé cõng em ngày đó là chị Nguyên vợ anh Chót bây giờ. Còn nhớ, năm 2013, nhân dịp chúng tôi về Huế dự Kỷ niệm 45 năm Chiến thắng Mậu Thân, khi đến viếng Nghĩa trang Liệt sĩ thành phố, tôi vui vẻ kể lại chuyện này cho mọi người cùng nghe. Chị Nguyên cười đưa tay đấm vào lưng tôi mà nói rằng, chuyện chú Đấu kế thì đúng hết, nhưng thiếu một chi tiết: giữa hai miếng cháy, anh Chót đưa cho tôi ngày đó còn có một miếng thịt lợn ăn ngon lắm!
Tạ Ngọc Dũng chiến sĩ điện đài vốn trước đó là liên lạc đại đội được cử đi học điện đài vô tuyến điện 2W. Quê Dũng ở xã Nam Cường, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Năm 2001, khi còn ở Trường Sĩ quan Lục quân 1, trong một chuyến công tác Thái Bình, tôi đã tìm về nhà Dũng.
Theo địa chỉ trong lý lịch quân nhân mà tôi còn nhớ, tôi hỏi về thăm nhà ông Tạ Ngọc Bầu là thân sinh của Dũng. Đến đầu xóm, mọi người bảo, cụ Bấu đã mất từ lâu, chỉ còn ông Dũng thôi. Vào nhà hỏi thăm, thì Dũng đang ở ngoài đồng tôm sát mép biển.
Giữa trưa hè nắng chói chang, tôi lững thững đi bộ tìm ra ruộng tôm cách nhà gần 2 cây số. Đứng trên bờ nhìn xuống, đang xoay trần giữa ruộng là một ông già khô đét, đen đúa, tóc bạc trắng, mí mắt đã bắt đầu sụp xuống. Dũng sinh năm 1951, nhập ngũ 1968, bổ sung vào đại đội tôi sau Chiến dịch Mậu Thân. Hình ảnh Dũng đọng lại trong trí nhớ của tôi là một thanh niên to khỏe, đẹp trai, da trắng hồng, môi đỏ tươi như môi con gái. Thầm nghĩ, mình đã nhầm, tôi cất tiếng hỏi:
– Ông ơi, cho tôi hỏi có phải ông là Dũng?
Người đàn ông vẫn đang khua tay làm việc, không thèm ngước lên, giọng vùng vằng, gằn đục:
– Dũng ở đây nhiều, ông hỏi ai?
– Tôi hỏi ông Dũng đặc công – Tôi từ tốn nói lại.
– Ối dào! Công với queo gì bây giờ nữa!
– Tôi muốn gặp ông Dũng con trai cụ Bầu – Tôi tiếp tục kiên trì hỏi.
Nghe tôi nói thế, Dũng trừng mắt lên, hỏi dồn:
Này ông kia! Bố tôi mất lâu rồi nhé. Cớ làm sao mà ông biết cả tên bố tôi hở?
Biết chắc là Dũng rồi, không cần phải giữ phép lịch sự nữa, tôi hét to:
– Trời đất ơi! Mày quên tao thật rồi Dũng ơi. Tao là Đầu – là Nguyễn Mạnh Đầu, Chính trị viên Đại đội 20 đặc công đây.
Dũng ngớ người ra, tất tả lật đật chạy từ ruộng tôm lên bờ, tay chân còn be bét bùn, ôm choàng lấy tôi, thảng thốt nghẹn ngào, nước mắt cứ thế chảy, giọng nghẹn ngào, rưng rưng: – Trời ơi ! Đúng thật anh Đầu. Anh Đầu thật rồi. Anh còn sống ư. Mấy mươi năm nay rồi, bọn chúng em đều đinh ninh là anh đã hy sinh do bị bom trên đường cáng thương ra Bắc. Anh ơi! Mới đó đã tròn 30 năm rồi. Đại đội ta ngày đó có hơn 100 anh em. Bây giờ còn được mấy người!
Hôm đó trong căn nhà lộng gió biển của Dũng, hai anh em bùi ngùi hồi tưởng chuyện của một thời trận mạc, điểm danh lại ai còn ai mất.
Trung tướng Nguyễn Mạnh Đấu



