Trên Mặt trận Cánh Đồng Chum Xiêng Khoảng, nơi chiến trường ác liệt nhất tại Lào đã chứng kiến biết bao cuộc đọ sức cam go, gian khổ, ác liệt giữa bộ đội ta kề vai sát cánh cùng Quân đội Pathét Lào với Lực lượng đặc biệt Vàng Pao, quân phái hữu, lính đánh thuê Thái Lan được sự chi viện tối đa của không quân, pháo binh, cố vấn Mỹ. Với tôi, sang chiến trường đầu tiên (23/9/1970) nhưng chỉ được hơn 1 tháng lại có lệnh về nước học nghiệp vụ trinh sát ảnh. Hoàn thành khoá học được nghỉ phép ít hôm và làm công tác chuẩn bị, đến ngày 3/6/1971 trở lại chiến trường. Sau những ngày hành quân gian nan, vất vả chủ yếu là đi bộ (vì ô tô chỉ qua cửa khẩu Nậm Cắn) suốt chặng đường qua Khăm-pa- niên, đèo Mã Tử, vào Sở chỉ huy tiền phương của Mặt trận ở Khe Đá 2 rồi tới nơi đơn vị đóng quân là Phu Nhu. Dù muộn mằn hơn nhưng tôi cũng vinh dự được tham gia 2 chiến dịch lớn là: Chiến dịch Z (mở màn 18/12/1971, kết thúc 6/4/1972) và Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng (từ 25/5 đến 15/11/1972).
Là người lính trinh sát thuộc Tiểu đoàn Trinh sát 31 của Mặt trận 959 (sau đổi tên là MT31) nên chúng tôi luôn là người đi trước về sau để kịp thời nắm bắt mọi tình hình, diễn biến, động thái của địch giúp trên có cơ sở hạ quyết tâm chiến đấu chính xác. Tôi lại là chiến sĩ trình sát ảnh, một hình thức mới mẻ so với hoạt động trinh sát của ta để nắm địch, lần đầu tiên ta sử dụng kỹ thuật chụp ảnh tại chiến trường CánhĐồng Chum – Xiêng Khoảng. Mỗi chiến dịch, mỗi chuyến luồn sâu đều có những kỷ niệm riêng, thành quả riêng nhưng trong khuôn khổ bài viết này tôi chỉ đề cập đến một chuyện rất bình thường đó là những ngày luồn sâu dài ngày trong lòng địch trước và ngay dịp tết Nhâm Tý (1972) trong chiến dịch Z.
Để chuẩn bị cho chiến dịch, ngay từ những ngày cuối tháng 11, đầu tháng 12/1971, Tiểu đoàn Trinh sát 31 chúng tôi đã triển khai nhiều tổ, toán đi nắm địch ở khắp nơi thuộc khu vực Cánh Đồng Chum và sâu hơn là Sảm Thông, Long Chẹng hoặc hướng Mường Sủi, Xalaphukhun… để sớm biết ý đồ, cách bố trí lực lượng, binh hỏa lực của chúng. Tôi cũng theo một tổ lên đài quan sát mấy ngày liền, cũng đã chụp được những hình ảnh quý giá, thiết thực. Đặc biệt ngày 1/12/1971, Thủ trưởng Nguyễn Chí Nguyện, Trung tá, Trưởng phòng Quân báo Mặt trận trực tiếp lên đài quan sát cùng chúng tôi theo dõi. Sau khi về căn cứ tiểu đoàn ở Phu Nhu làm ảnh đồ xong gửi lên báo cáo các thủ trưởng Bộ Tư lệnh Mặt trận (1), họ đều rất tâm đắc, chú ý vì những bức ảnh chân thực, nhất là khu vực điểm cao Phu Tôn, Phu Tâng, nơi được chọn là trận đánh mở màn Chiến dịch Z. Chính vì vậy Trưởng phòng Quân báo Nguyễn Chí Nguyện có chỉ thị cho đồng chí Mùi, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 31 cử tôi đi cùng toán trinh sát luồn sâu vào sào huyệt địch ở căn cứ Long Chẹng để chuẩn bị cho chiến dịch sắp đến ngày nổ súng.
Đáng ra ngày 3/12/1971, tôi lên đường cùng toán của Đại đội 1 do Đại đội trưởng Dương Đức Tưởng trực tiếp chỉ huy, nhưng sau vì toán này thọc sâu nắm địch ở hướng khác và còn có nhiệm vụ phục kích bắt tù binh để khai thác (trong chiến dịch “Cù Kiệt” anh Tưởng đã phục bắt được 2 tên, khi khai thác có nhiều giá trị tin tức, anh Tưởng được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì) nên tôi tạm có lệnh lui lại đi cùng một bộ phận của Đại đội 3 do Chính trị viên Trịnh Đức Hậu trực tiếp đi và xuất phát ngày 5/12/1971. Thời điểm nàytoàn bộ khu vực Cánh Đồng Chum vẫn bị địch chiếm đóng nên bộ phận chúng tôi phải tìm cách đi vòng, đi đêm để vào cửa rừng cho an toàn. Vì chuẩn bị cho chuyến đi dài ngày nên mang rất nặng, riêng balô đã hơn 30kg vì ngoài tăng, võng, ni lông, vỏ chăn còn lương khô cho hàng tháng… chưa kể thắt lưng cũng gần chục kg nữa: dao găm, súng K54 (vì tôi mang máy ảnh, ống nhòm, thiết bị chụp, thuốc tráng, hộp tráng phim nên được ưu tiên không phải mang AK), địa bàn, 2 quả lựu đạn, bi đông nước, túi thuốc quân y cá nhân, túi muối rang… Trong suốt mấy ngày bộ phận trinh sát luồn sâu chúng tôi cắt rừng, đi góc phương vị dần tiến sâu vào tung thâm vùng địch, trưa 8/12 vượt qua Bản Hon, chiều 9/12 tới chỗ Trung đoàn 866, 16 giờ 30 phút ngày 10/12 đến gần Nậm Xiêm, ngủ tại khu vực này. Hôm sau anh Hậu cử người bắt liên lạc với toán anh Hà Sơn là Đại đội trưởng Đại đội 3 đã đi trước ít ngày đang hoạt động gần khu vực này, trong khi đó một tổ được cử đi lùng sục xung quanh phát hiện gần suối có nhiều vết giày mới của địch nên toán trưởng quyết định cho anh em di chuyển lên sườn núi xa hơn gần tiếng đồng hồ để đảm bảo an toàn. Ngày 15/12, chúng tôi vượt dãy Phu Pha Xay với đỉnh cao sừng sững 2.100m, chiều nghỉ lại ở lưng chừng, hôm sau tiếp tục, được cái toàn rừng già nên ban ngày đi thoải mái, gần tối nghỉ và ngủ lại ở sườn 1643. Trong mấy ngày chúng tôi tiếp tục trèo đèo, lội suối, băng rừng, phần lớn phải đi đêm, lúc chạng vạng hay rạng sáng vì càng ngày càng vào sâu hơn hậu phương địch, sợ nhất là chạm trán với chúng hoặc gặp dân. Vấn đề không phải là sợ chiến đấu với địch mà điều quan trọng là lộ ý định chiến dịch vì biết trinh sát ta đã xuất hiện ở đây địch sẽ phán đoán ra ý đồ tác chiến của ta (thực tế trong chiến dịch Điện Biên Phủ sát ngày nổ súng không may một chiến sĩ ta bị địch bắt nên Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã lập tức thay đổi phương án tác chiến để tránh bất lợi cho ta).
Nếu không có mấy ngày nghỉ chờ chỉ thị cấp trên thì chúng tôi đã đến được khu vực núi Vua (phía sau trung tâm Long Chẹng) để lập đài quan sát, từ khu vực này theo dõi mọi động thái hoạt động của địch tại khu trung tâm: từ sân bay, khu sân đỗ, kho xăng dầu, trận địa pháo, đường sá, trại lính, kho tàng… sẽ rất rõ, chụp được ảnh sẽ rất chân thực.
Ngày 18/12, trên đài quan sát ở khu vực núi đá chúng tôi thấy sân bay Long Chẹng tấp nập khác thường ngay từ sớm, các tốp T28 thay nhau cất cánh, tụi máy bay trinh sát L19, OV-10 cũng hối hả bay đi rồi các máy bay vận tải hạng nhẹ L20, hay lớn hơn như C123, C130 cùng một số trực thăng như UH1, H34, có cả 1 – 2 chiếc CH47 Chinook… hoạt động khác thường (sau mới biết hôm đó là ngày ta tấn công mở màn Chiến dịch Z). Tất cả những động thái này của địch đều được báo cáo đầy đủ, kịp thời về CHS, riêng tôi cũng đã chụp được đầy một cuộn phim 36mm với những hình ảnh sống động, chân thực nhất. Những ngày tiếp theo chúng tôi vẫn luôn theo dõi sát sao những diễn biến ở Long Chẹng. Sau đó chúng tôi lại được lệnh di chuyển, triển khai tiếp nhiệm vụ, lương khô có hạn nên phải ăn dè sẻn, đường đi cheo leo hiểm trở vô cùng, vách đá dựng đứng cào xé mỗi khi va chạm làm chân tay xước xát hết, bụng lại đói nên đi rất mệt. Chiều tối dừng nghỉ, nhận được điện chúng tôi vô cùng phấn khởi vì tin chiến thắng ở mặt trận. Do diễn biến tình hình thay đổi liên tục nên bộ phận chúng tôi được lệnh dừng lại chờ chỉ thị mới, ngày 24/12 được tăng cường thêm 1 tổ 3 người nữa, rất may có thêm ít lương khô tiếp viện, dù cũng chỉ đỡ thêm được vài ngày. Trong khi hai tổ toả ra hai hướng đi lùng sục, nắm tình hình địch thì một tổ kiếm được ít thóc mục của dân, về anh em hì hục giã bằng tay, tối được bữa cơm nếp dù còn lẫn cả trấu vì làm không kỹ nhưng vẫn thấy ngon. Ngày 27/12, tiếp tục cử 2 tổ mở rộng địa bàn đi nắm tình hình, tôi đi cùng anh Lọ, anh Núm và anh Trương, các anh đều là người dân tộc Thái quê Sơn La (Tiểu đoàn 31 trinh sát vốn là của Quân khu Tây Bắc, nên đơn vị rất nhiều anh em là người dân tộc Thái vừa biết ít nhiều tiếng Lào, vừa thạo đi rừng). Chúng tôi vào 1 bản lưa thưa mấy nóc nhà, rất im ắng vì dân đã chạy xa, chắc biết sớm muộn thì trong mùa khô này chúng ta cũng tấn công vào Long Chẹng. Ba chúng tôi cảnh giới 3 hướng cho anh Núm dùng dao găm phá vách vào (không đi cửa chính vì sợ địch gài lựu đạn mỏ vịt hoặc bẫy mìn). Được 1 tải mì, quí giá nhất là ít gạo nếp và mấy hộp thịt trâu, quá mừng vì thấy sống rồi! Ngày 29 và 30/1, ngoài một tổ đặt đài quan sát (trong đó có tôi thực hành chụp ảnh) theo dõi mọi diễn biến, tình hình địch ở trung tâm Long Chẹng còn lại chia thành hai tố tiếp tục lùng sục quanhkhu vực, toả đi mấy hướng, theo anh em nói lại, dân bản ở đây đã chạy xa và cũng chỉ mới mấy ngày trước thôi vì nhiều dấu vết còn mới, thậm chí còn thấy một con chó và hai con gà vẫn quanh quẩn ở một nhà.
Ngày 31/12/1971, tối qua nhận được điện tăng cường công tác nắm địch và đi vào sâu hơn về phía khu vực núi Vua để phản ánh kịp thời mọi diễn biến, thực trạng khu trung tâm Long Chẹng và các điểm cao xung quanh, nhất là trong mấy ngày tới vì vậy ăn sáng xong chúng tôi hành quân ngay, cũng may trong mấy ngày vừa rồi vừa đặt đài quan sát vừa tuần tra nghe ngóng tình hình lại tận dụng lấy được ít gạo, thóc nếp của dân để lại cũng như giấu xung quanh gần nhà nên chúng tôi rang gạo nếp làm lương khô, rủng rỉnh được ít ngày. Chúng tôi cắt rừng đi suốt đêm, sướng nhất là nghe thấy trong trung tâm Long Chẹng nổ ùng oàng, bọn máy bay nháo nhác bay lên, bay xuống… tôi càng phấn chấn vì pháo 130mm, D74 (122mm)… ầm ầm nhả đạn xuống sân bay, khu trung tâm. Nhìn những chớp lửa, những mục tiêu bốc cháy ngùn ngụt mà lòng chúng tôi vui mừng khôn tả, niềm hạnh phúc này chỉ chúng tôi mới cảm nhận được chứ chính các anh pháo binh oai hùng là “tác giả” nhưng không thể tận mắt thưởng ngoạn.
Ngày 1/1/1972, ngày mở đầu năm mới được lệnh nghỉ ngơi vì hôm qua đi suốt đêm, cả toán tản ra ngủ tại các hốc đá, khổ nhất là cơn khát hành hạ. Tối chờ trăng lên mới đi… lại điệp khúc mò mẫm trong đêm, sáng 4/1 tản ra mấy bụi giang cách suối chừng năm, sáu chục mét lăn ra ngủ. Trời sáng rõ thấy tiếng người lao xao bên kia bờ suối, chúng tôi nín thở theo dõi và sẵn sàng chiến đấu nếu chúng phát hiện. Bỗng “đoàng! đoàng!” Mấy phát súng nổ, rồi phía dưới một đoạn cũng nghe tiếng “ầm! ầm!”, thì ra mấy thằng tốp trên vừa đi vừa bắn chim còn phía dưới chúng ném lựu đạn xuống suối để bắt cá. Được cái chúng chỉ đi bên kia bờ suối không vượt sang bên này nên cũng không có gì nguy hiếm lắm, chiều chúng lại cho một tua như vậy. Trong mấy ngày sau chúng tôi vẫn ngày nghỉ, chờ chập choạng tối mới lại lên đường vì đây rất gần địch, sợ chúng phát hiện. Từ 8/1 đến 11/1, toán chúng tôi cho một tổ lập đài quan sát, trong đó có tôi làm nhiệm vụ chụp ảnh để theo dõi mọi hoạt động của địch tại trung tâm, số còn lại chia hai tổ toả rahai hướng lùng sục nắm tình hình. Tối 11/1, rất mừng khi nhận được điện cho biết ta đã giải phóng Sảm Thông và chúng tôi được lệnh mai di chuyển, mỗi người chuẩn bị mang theo dự trữ 5 ngày nước uống, tôi và anh Bống chung nhau (anh Bống túm vào áo mưa xong lại bọc tăng ni lông bên ngoài nên khá yên tâm). Ngày 12/1, được trên chỉ thị: chú ý phục đánh địch tháo lui từ Sảm Thông về Long Chẹng, chính vì vậy cả toán lại khẩn trương quay lại phục địch ở đường mòn to, gần bến ngay bờ suối. Đây là điều khá đặc biệt, trinh sát rất ít khi được giao nhiệm vụ trực tiếp đánh địch vì khi đi hoạt động thường nhỏ lẻ, lực lượng ít, không trang bị hoả lực mạnh (chỉ có AK báng gấp và mỗi người mấy quả lựu đạn) nhưng trong bối cảnh địch đang bị đánh, chạy dài như thế này thì chỉ cần nổ súng diệt vài tên là chúng rất hoang mang dao động vì không ngờ bị ta tấn công ngay gần sào huyệt của chúng. Đang đi thấy mấy chiếc T28 quần đảo trên đầu rồi L19, OV-10 vè về lượn lờ quan sát, sau có mấy chiếc trực thăng UH1, H34, rồi cả chiếc CH47 vòng đi vòng lại như muốn đáp xuống khu vực gần đó. Tối đến, anh em rất mừng khi được tin ta đã chiếm Long Chẹng, tuy nhiên vẫn thấy súng nổ nhiều và máy bay lượn đi lượn lại, có vẻ như địch tăng cường tiếp viện và chi viện tối đa về hoả lực không quân nên vẫn còn giằng co ác liệt.
Ngày 14/1 lại nhận được điện không phục đánh địch nữa mà nhanh chóng cơ động, theo dõi bám nắm hoạt động của địch… lương thực đã cạn kiệt, hai ngày rồi, mỗi ngày chỉ một bánh, còn lại hái rau rừng, hoa chuối trừ bữa. Đến ngày 16/1, rất may có mấy anh người dân tộc phát hiện được những dây củ mài, vậy là sống rồi! Nhưng củ mài cũng chỉ được vài ngày là hết, đấy là khi đã chủ động bổ sung củ chuối cho đủ no. Rất may những ngày sau chúng tôi phát hiện ra mấy bản, tuy “vườn không nhà trống” nhưng vẫn kiếm được khá nhiều gạo, thóc nếp, lại cả thịt hộp, sữa và một ít muối nữa.
Đến 19/1, chúng tôi được báo chủ động công tác nắm địch, cố gắng tự khắc phục về lương thực, sẽ có tiếp viện từ Sảm Thông, tuy nhiên ngày 22/1, khi một tổ được phái đến tiếp tế cho chúng tôi chỉ được mấy chục bánh lương khô và ít muối rang, điều quan trọng là tôi gửi được hai cuộn phim chụp trong những ngày vừa rồi và đã tráng(không có điều kiện phóng ảnh tại chỗ nhưng riêng phim chụp được phải tráng ngay để nếu hỏng thì chụp lại) về để anh Đỗ (người học ảnh cùng tôi) ở nhà phóng ảnh trước kịp thời báo cáo các Thủ trưởng đơn vị và Mặt trận. Như vậy số tiếp tế có hạn cũng chỉ sử dụng được thêm mấy ngày vì ngoài Sảm Thông cũng không có lương khô nên hôm sau (23/1) anh Hậu toán trưởng phải chủ động cho cả lực lượng chia làm 3 tổ toả đi xa hơn để tìm kiếm, sau gần một ngày vất vả rất may là các tổ đi đều có kết quả tốt đẹp, gom góp được khá nhiều gạo và thóc nếp, lại vét được ít muối nữa là thứ rất quí hiếm lúc này.
Đến 6/2/1972, chúng tôi vẫn phải vừa đặt đài quan sát vừa cử tổ đi nắm địch vì mấy ngày này địch đã chiếm lại được Long Chẹng nên ra sức củng cố hệ thống phòng thủ, đề phòng ta mở lại tấn công. Nơi tạm trú của chúng tôi là hốc đá rất gần một rừng chuối nên dù xa nguồn nước nhưng thuận tiện cho việc sử dụng nước ăn vì chỉ cần chặt rồi khoét sâu vào củ hơn chục cây chuối to là đủ nước dùng. Mai đã là tết Ông Táo, vì cũng không biết mấy ngày nữa đến tết có điều kiện hay không nên anh em tổ chức gói bánh chưng luôn, tuy không có nhân nhưng thấy vẫn rất ngon, đặc biệt là gợi nhớ không khí Tết ở quê nhà. Tối nhận được điện: tôi chuyển ra ngoài chỗ anh Vi Văn Mạn, Chính trị viên phó nhận nhiệm vụ mới (anh Mạn sau này là Trung tướng, Chính ủy Quân khu 1, đại biểu Quốc hội). Ngày 7/2, tôi chia tay anh Hậu và 11 anh em khác là: Mây, Trường, Thùng (báo vụ), Khuông, Hàm, Bống, Phúc, Núm, Lọ, Trương, Chưởng, thật lưu luyến vì hơn một tháng trời anh em đồng cam cộng khổ, vui buồn sống chết có nhau nay vì nhiệm vụ lại mỗi người một ngả. Anh Hậu cử 1 tổ gồm anh Bổng, Núm, Phúc đưa tôi đi cho an toàn. Ngày 9/2 (25 tết) chúng tôi đến hang Ông Kim nghỉ ngơi, cơm nước xong 3 anh em quay lại chỗ anh Hậu còn tôi chờ người của anh Mạn đến đón. Mãi 12/2 (28 tết) mới thấy anh Dũng (người Tày, Cao Bằng) và anh Pùa (người Thái, Sơn La) đến đón, gặp nhau phấn khởi vô cùng, đặc biệt là sau khi về đến chỗ trú quân, gặp lại anh Vi Văn Mạn và anh em trong toán.
Ngày 14/2 (30 tết), chúng tôi vẫn mải miết hành quân, kiểu này xác định là đón giao thừa dọc đường (mục tiêu trước mắt là hướng BảnNa, 1663). Nhưng rất may chỉ hơn 9h tối được lệnh dừng lại, tự tìm chỗ mắc võng ngủ vì đi tiếp phải 5-6 tiếng mới có nước. Chúng tôi tranh thủ, chỉ mấy phút sau ngủ ngay vì mệt, rất may kịp dậy đúng phút giao thừa, thật xúc động, nghẹn ngào khi nghe lại giọng Bác chúc thơ xuân 1969 và lời thơ do Huy Thục phổ nhạc thật xao xuyến, lay động, sau đó là lời chúc Tết của Bác Tôn và chương trình mừng xuân mới: thơ Tố Hữu, một bài của Xuân Thủy gửi về từ Paris, ca nhạc tổng hợp…
Ngày 15/2/1972 (Mùng 1 Tết Nhâm Tý), bắt đầu hành quân trở về đơn vị, 16/2: tiếp tục đi, nước mã hồi nên đi rất nhanh, lên đến đỉnh 1663 mới nghỉ, chiều đi tiếp, gần tối đến khu lán trại của một đơn vị nào đó đã chuyển đi mới dừng, chuẩn bị chỗ ngủ. Sáng sớm mùng 3 tết dậy đi tiếp hơn 2 tiếng mới ra đến cửa rừng, tối ngủ giữa Cánh Đồng Chum, không khí thanh bình thích thật. Hơn 2 tháng trước khi vượt Cánh Đồng Chum phải luồn lách, chui lủi nay thoải mái hít thở không khí tự do, thanh bình, tuy nhiên muỗi nhiều vô kể, nóng mà vẫn phải đắp chăn kín mít, vừa thiu thiu ngủ thì thằng AC130 mò đi bắn đêm ì… ùng suốt… kệ nó, chúng tôi vẫn ngủ ngon lành.
Ngày 18/2, dậy sớm vượt Cánh Đồng Chum, không qua Viện 61 mà tiện thể ra thẳng K8 lấy gạo, trưa 19/2 về đến nơi đơn vị đóng quân ở Phu Nhu, kết thúc chuyến công tác luồn sâu vào vùng địch dài 2 tháng rưỡi. Sau một ngày tắm giặt, nghỉ ngơi tôi bắt tay vào tráng phim, phóng ảnh, làm ảnh đồ cùng văn bản tóm tắt báo cáo lên cấp trên, chuyến đi với kết quả tốt đẹp được thủ trưởng đánh giá cao và được xét tặng bằng khen, điều phấn khởi nhất là chuyến đi rất vất vả gian nan, thiếu thốn, đói khát, đầy nguy hiểm… nhưng anh em đều trở về an toàn. Trong lòng tôi cảm thấy tự tin, vui sướng vì đã phần nào được góp một phần rất nhỏ vào một chiến dịch lớn của Mặt trận có ý nghĩa làm thay đổi cục diện chiến trường tại Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng, Lào thời điểm đó.
Đại tá Triệu Hồng Chiến




